• Thứ 6, 19/04/2024
  • (GMT+7)

Nghiên cứu giá trị của cộng hưởng từ với thuốc đối quang từ primovist trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan

SUMMARY

Aim: Evaluate the value of MRI with Gd-EOB-DTPA (Primovist) in the detection of HCC comparison with the pathological results

Methods: Descriptive cross-sectional research, performed on 28 patients consist of 2 groups: Group I includes 18 patients with HCC and group II includes 10 non-HCC patients (7 patients with focal nodular hyperplasia. 3 patients with liver metastasis). The patients whose liver lesion were detected on diagnostic imaging modalities undergone MRI with hepatiobillial specific contrast agent Gd-EOB-DTPA (Primovist). Thereafter, definite diagnosis was based on histopathological results of biopsy or surgery.

Results: Hepatobiillial phase hypointense was the most sensitive diagnostic criteria of HCC(94.4%), however, specificity is only 70%. For liver cancer diagnosing, arterial enhancement followed by washout on portal venous or late phase had the sensitivity, negative predictive value and diagnostic accuracy were 61.1%, 58.8% and 75%, respectively. When combining with hepatobillial phase hypointense, these values increased to 72.2%, 67.7%, and 82.1%, respectively; while, the specificity and positive predictive values were unchanged.

Conclusion: Hepatobiillial phase hypointense is a good diagnostic criteria on detection of HCC than differential diagnosis with other hepatic lesions. The addition of hepatobiillial phase on MRI with Gd-EOB-DTPA (Primovist) increases the likelihood of detecting HCC lesions.

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá giá trị của thuốc đối quang từ Gd-EOB-DTPA (Primovist) trong phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan có đối chiếu với kết quả giải phẫu bệnh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 28 bệnh nhân thuộc hai nhóm: Nhóm I gồm 18 bệnh nhân ung thư gan và nhóm II gồm 10 bệnh nhân không phải ung thư gan (7 bệnh nhân có tổn thương tăng sản thể nốt khu trú, 3 bệnh nhân di căn gan). Những bệnh nhân trên được phát hiện tổn thương gan thông qua các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và được chụp cộng hưởng từ gan mật với thuốc đối quang từ đặc hiệu mô Gd-EOB-DTPA (Primovist). Sau đó, việc chẩn đoán xác định được dựa trên kết quả mô bệnh học thông qua sinh thiết hoặc phẫu thuật.

Kết quả: Dấu hiệu giảm tín hiệu pha tế bào gan của thuốc đối quang từ Gd-EOB-DTPA có độ nhạy rất cao trong chẩn đoán UTG (94,4%), tuy nhiên, độ đặc hiệu chỉ ở mức 70%. Trong chẩn đoán ung thư gan, dấu hiệu ngấm thuốc mạnh thì ĐMG kèm thải thuốc thì TMC hoặc thì muộn có độ nhạy, giá trị dự báo âm tính và độ chính xác ở mức lần lượt 61,1%; 58,8%; 75%. Khi kết hợp dấu hiệu giảm tín hiệu pha tế bào gan vào tiêu chuẩn trên, các giá trị chẩn đoán tăng lần lượt lên 72,2%; 67,7%; 82,1% trong khi độ đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính không đổi.

Kết luận: Giảm tín hiệu PTBG là dấu hiệu tốt để phát hiện UTG hơn là chẩn đoán phân biệt với các tổn thương gan khác. Việc bổ xung đặc điểm hình ảnh PTBG của thuốc đối quang từ Gd-EOB-DTPA (Primovist) vào tiêu chuẩn chẩn đoán làm tăng khả năng phát hiện tổn thương UTG.

Tác giả: Nguyễn Tiến Sơn, Phạm Minh Thông

Địa chỉ:

( Theo tạp chí Điện Quang Việt Nam số 40 - 11/2020)

(0)

Đăng nhập | Đăng ký

Bình luận

Đang tải dữ liệu loading

Đơn vị hợp tác