• Thứ 5, 18/04/2024
  • (GMT+7)

Cộng hưởng từ tưới máu trong chẩn đoán phân biệt u nguyên bào thần kinh đệm và u di căn não đơn ổ

Perfusion mri in differentiation of glioblastoma multiforme from solitary brain metastasis

SUMMARY

Objective: Objective of this study is to describe the value of Perfusion MR Imaging in the differentiation of glioblastoma from solitary brain metastasis.

Material and Methods: Between 06/2015 and 04/2017, a descriptive cross-sectional study involved 58 patients with solitary brain tumor (26 solitary brain metastases and 32 glioblastomas) underwent preoperative conventional MR Imaging, Perfusion MR Imaging and histopathologically determined glioblastomas or metastases after stereotactic biopsy or partial resection. The conventional MR Imaging and Perfusion MR Imaging in these patients were analysed. Relative cerebral blood volume (rCBV) was calculated and receiver operating characteristic (ROC) analysis was performed. To obtain the cut-off value of rCBV presenting a statistical difference between the two tumors groups.

Results:Tumoral rCBV ratio presented no significant different between two tumor groups. Peritumoral rCBV ratios of glioblastomas (1,44 ± 0,52) significantly differentiated from those of solitary brain metastases (0,63 ± 0,31) (p = 0,935). The cut-off value was taken as 1,045 in the peritumoral rCBV ratio provided sensitivity, specificity, PPV and NPV of 90,6 %, 92,6%, 96,67% and 89,92%, respectively.

Conclusion:Perfusion-weighted MR imaging enable distinction between glioblastoma and solitary brain metastasis.

Keywords: Glioblastoma, Solitary brain metastasis, Perfusion MR Imaging.

TÓM TẮT

Mục đích: Nghiên cứu tiến cứu được tiến hành với mục tiêu đánh giá giá trị của cộng hưởng từ tưới máu trong chẩn đoán phân biệt giữa u nguyên bào thần kinh đệm và u di căn não đơn ổ trước phẫu thuật.

Phương pháp: Từ tháng 06/2015 đến 04/2017, 58 trường hợp u não đơn ổ trên mô bệnh học (32 u nguyên bào thần kinh đệm, 26 u di căn não) có chụp cộng hưởng từ thường quy và cộng hưởng từ tưới máu, được phẫu thuật hoặc sinh thiết tại bệnh viện Việt Đức. Phân tích hình ảnh cộng hưởng từ thường quy và cộng hưởng từ tưới máu, chỉ số rCBV vùng u và quanh u và đường cong ROC được sử dụng để đánh giá mối liên hệ giữa CBV và hai loại u.

Kết quả: Chỉ số rCBV trung bình tại vùng u giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. rCBV trung bình tại vùng quanh u giữa nhóm u nguyên bào thần kinh đệm (1,44 ± 0,52) và u di căn não đơn ổ (0,63 ± 0,31) có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,001. Điểm cắt rCBV = 1,045 tại vùng quanh u cho độ nhạy 90,60%, độ đặc hiệu 92,60%, giá trị dự báo dương tính 96,67% và giá trị dự báo âm tính 89,29%trong chẩn đoán phân biệt hai loại u trên.

Kết Luận: Cộng hưởng từ tưới máu với điểm cắt tại vùng quanh u rCBV = 1,045 có giá trị trong chẩn đoán phân biệt hai loại u này.

Từ khoá: u di căn não đơn ổ, u nguyên bào thần kinh đệm, cộng hưởng từ tưới máu.

Tác giả: Thân Văn Sỹ*, Nguyễn Duy Hùng**, Phạm Chu Hoàng***

Địa chỉ: * Khoa CĐHA Bệnh viện Việt Đức. ** Bộ môn CĐHA Trường Đại Học Y Hà Nội *** Khoa CĐHA Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

(Tạp chí Điện quang Việt Nam số 31)

(0)

Đăng nhập | Đăng ký

Bình luận

Đang tải dữ liệu loading

Đơn vị hợp tác